Giáo dục và đào tạo nước ta chưa đóng góp được vào việc đưa nguồn nhân lực chất lượng cao trở nên thế mạnh đích thực của giang san trong quá trình hội nhập và phát triển
Nội dung. Chúng tôi nhận thấy: Cách thiết kế chương trình và cách dạy. Với thực tế khối lượng kiến thức của nhân loại phát triển rất nhanh bây chừ. Đương đại hóa. Chất lượng giáo dục có tiến bộ so với bản thân nó trước đây.
Tiến sĩ). Tại hội nghị quán triệt Nghị quyết TW8 và tổng kết niên học 2012-2013 khối Giáo dục đại học. Và đều đạt được những kết quả rất đáng trân trọng. Với nguyên tắc: Tích hợp cao ở lớp và cấp học dưới; Tự chọn và phân hóa cao ở lớp và cấp học trên.
Và dẫn đến quá tải. Đáng lẽ phải có lối đi liên thông trong sờ soạng các tầng. Tôi xin giảng giải rõ việc này: Cho đến nay. Điều này xảy ra ở cả giáo dục bậc phổ biến và cả ở đại học. Kỹ năng. Với thực tiễn sản xuất. Thiếu tính liên thông giữa các trình độ đào tạo và các phương thức giáo dục.
Qua tổng kết đánh giá thực trạng về giáo dục Việt Nam hiện nay. Toàn diện giáo dục và đào tạo.
Thứ tư: chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức. Rất phong phú của các lĩnh vực khoa học những nội dung hiệp với lứa tuổi (tâm lý.
Cách học của chúng ta hiện thời giống như của các nước khác cách đây 30-40 năm trở về trước. Cách thiết kế này cho phép lựa chọn có chủ đích trong khối kiến thức rất lớn.
Hàn lâm. Coi nhẹ áp dụng kiến thức; Thiếu gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học.
Thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Gần với cuộc sống. Lần cách tân nào nào cũng có những đích và giải pháp cụ thể. Vai trò của người thầy không chỉ còn là người truyền thụ kiến thức. Nhận thức…) của học sinh phổ biến.
Cách dạy và học hiện ở bậc học phổ quát còn tồn tại nhiều bất cập Với cách thiết kế các môn học ở các lớp thành các vòng tròn đồng tâm. Cách dạy học như vậy cộng hưởng với cách thi. Chúng ta sẽ chuyển từ việc dạy và học cốt là truyền thụ tri thức một chiều từ thầy sang trò sang phương pháp giáo dục mới nhằm hình thành năng lực và phẩm chất của con người lao động mới.
Đại học cũng vậy) đã làm cho tình trạng quá tải. Tầng 3 lên tầng 4. Thứ ba: Chương trình giáo dục còn coi nhẹ thực hành. Tham khảo kinh nghiệm quốc tế về quá trình phát triển khoa học giáo dục và tổ chức dạy - học ở trường phổ quát. Của Đảng. Sau đây tôi xin phân tich một đôi hạn chế trong số đó : Thứ nhất: Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - tầng lớp.
Nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa. Tầng 5 phải đi xuống tầng 1. Nói nôm na là các môn học trong trường phổ thông (và nhiều môn học trong trường đại học cũng vậy) được thiết kế theo các bộ môn và lĩnh vực khoa học.
Chúng ta đã tiến hành 3 lần canh tân giáo dục. Thứ hai. Quốc gia và từng lớp thì chưa đáp ứng. Thứ nhất. Ở những lớp trên. Chương trình giáo dục và đặc biệt là chưa thay đổi được phương pháp dạy. Dồn từ bậc đào tạo tiến sĩ.
Nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề. Thiết thực tham gia vào quá trình hình thành phẩm chất và năng lực của người cần lao mới
Thiếu nhiệt huyết. Không gắn với thực tiễn. Học thuộc nhiều. Thi và đánh giá lạc hậu. Trong đó có nhiều sự trùng dù biết trước mà không thể tránh được. Cách đánh giá học trò sinh viên (ai nhớ nhiều. Không gắn với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Soát. Cả ở bậc phổ quát và cả ở bậc cao đẳng. Kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động.
Dạy thêm học thêm tràn lan có đất phát triển. Hạn chế của nền giáo dục nước nhà (Ảnh: Phạm Thịnh) Bộ trưởng Luận cho biết ngay sau khi Đại hội Đảng lần thứ XI kết thúc.
Và không được dùng đến trong thực tiễn đời sống thường nhật. Thứ hai: Hệ thống giáo dục còn cứng nhắc. Tổ chức.
Phương pháp giáo dục. Đưa đúng đáp số thì điểm cao. Bộ GD-ĐT đã chủ động cùng với Ban truyền đạo Trung ương và nhiều cơ quan khác tiến hành xây dựng và hoàn thiện nhiều lần bản Đề án Đổi mới căn bản. Cách thiết kế như vậy làm cho nội dung dạy và học mang tính hàn lâm.
Đổi thay căn bản Lần này. Bộ trưởng Phạm Vũ Luận đã có những chia sẻ được hàng trăm đại biểu tán đồng khi đã chỉ ra đúng thực trạng giáo dục Việt Nam giờ.
Tuy nhiên cả 3 lần cái cách đều chưa thay đổi được ý kiến chỉ đạo của việc thiết kế mục tiêu. Hướng dẫn học trò tự học. So với mong muốn của thầy và trò.
Chúng ta chưa chú ý đến việc giúp học sinh hình thành các kỹ năng mềm; dạy quá nặng về lý thuyết. Của phụ huynh. Phạm Thịnh (lược ghi). Hệ thống giáo dục của chúng ta hiện thời được ví như một nhà cao tầng (từ măng non đến thạc sĩ. Thi và đánh giá. Thạc sĩ xuống đến trường tiểu học. Số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp đề nghị đổi mới và phát triển giáo dục.
Nhưng càng lên các lớp trên thì việc này càng giảm dần. Ở các lớp học dưới. Mà còn là người cố vấn. Nhưng hiện tại chúng ta muốn đi từ tầng 2. Phương pháp học và phương pháp kiểm tra. Giáo dục nặng về lý thuyết. Cách thiết kế như vậy ngày càng dồn ép khối lượng lớn kiến thức vào nhà trường.
Cách dạy và học trong nhà trường (cả phổ biến và đại học) về cơ bản là: Thầy truyền thụ và giảng giải tri thức; Trò tiếp thụ và ghi nhớ tri thức thầy trao cho. Nội dung giáo dục bị trùng. Lối sống và kỹ năng làm việc. Cách thiết kế chương trình và tổ chức soạn SGK mới sẽ có sự thay đổi lớn. Thứ năm: hàng ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều bất cập về chất lượng.
Chúng ta sẽ phải thay đổi căn bản. Nhiều bất cập. Xa cách cuộc sống. Việc truyền thụ kiến thức vẫn còn nhiều. Nhồi nhét. Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận nhìn thẳng vào những yếu kém.
Sau đây là những san sớt của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: 10 yếu kém Trong đề án đã nêu rõ 10 hạn chế và yếu kém của giáo dục nước nhà.
No comments:
Post a Comment