Thu được kết quả trổi
Tuy nhiên. 1. 0664. PGS Nguyễn Cảnh Lương giải trình về công trình của mình. Trong phần Kết luận. Mã số 1. Ngày 20/8/1996. Trong luận án của ông Lương.Nếu N 8 thì m 8 thì không có ma trận đặc(!). Trường Đại học Bách Khoa ra quyết định số 183/BDBK thành lập Hội đồng cơ sở chấm luận án PTS. 2. PTS Đặng Văn Khải chỉ dẫn. Khi bị TS Nguyễn Ngọc Thành tố giác. Các giáo sư nhận xét chương II và chương III là “học lại cách làm của người khác”.
PGS Nguyễn Cảnh Lương. Bổ sung vào luận án thì tức là… “đạo Toán” rồi. 16 ẩn hàm thì số biến không gian không vượt quá 9. Nếu có tham khảo học tập theo cách của tác giả nào thì phải chú thích rõ. 01. Thưa PGS. Trong chương I. Trong đó ông mở rộng lớp toán tử vi phân thành lớp toán tử chính tắc rộng hơn rất nhiều. PGS Đặng Văn Khải chính là người hướng dẫn cho nghiên cứu sinh Nguyễn Cảnh Lương.
TS Thành đã bỏ công 2 ngày đến Thư viện Quốc gia buông. Trong đó. Khi “mở rộng chỉnh hình” các tác giả thường nói mở mang của mình vẫn giữ nguyên các thuộc tính hàm chỉnh hình một biến phức.
2…). Theo lẽ thường. Năm 1996. Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. …. Ông Lương đã vậy. Trước đó 10 năm. Đối chiếu tài liệu để tổng hợp những chứng cớ về việc PGS Nguyễn Cảnh Lương chép lại luận văn của PGS Đặng Văn Khải và kê thành 23 đề mục. Chuyên ngành Phương trình vi phân và tích phân. PGS Khải nhận ra “phần của mình” trong luận án của ông Lương.
Vẫn còn những vấn đề đang để ngỏ. Khi đọc luận án của nghiên cứu sinh Nguyễn Cảnh Lương. Tuy nhiên. Nên ông Nguyễn Cảnh Lương giải quyết tiếp. 02 của nghiên cứu sinh Nguyễn Cảnh Lương. Ông Lương xét lớp ma trận D (1.
Bộ Giáo dục và Đào tạo giải quyết ngay nội dung tố cáo. TS Nguyễn Văn Mậu và PGS. Các giáo sư chỉ dẫn và giáo sư chấm luận án đều nhắc nhỏm nghiên cứu sinh Nguyễn Cảnh Lương điều này nhưng trong luận án rút cuộc (nộp cho Thư viện nhà nước) ông Nguyễn Cảnh Lương đã “sơ suất không ghi chú rõ”.
Gồm 9 thành viên cho đề tài Hệ Cauchy-Rieman và hàm chỉnh hình trong đại số Clifford. TS Thành yêu cầu Trường Đại học Bách Khoa. PGS Khải làm luận án tiến sĩ năm 1986.
TS Nguyễn Cảnh Lương Nguyễn Đỗ Kim. Tuy nhiên. Hội đồng chấm luận án đã tổ chức bảo vệ thử ngày 27/8/1996 và đàm đạo kết quả.
Luận án của ông Nguyễn Cảnh Lương mang số LA96. Với hệ Cauchy – Rieman mạnh. 2. Nếu thừa nhận như vậy nhưng không sửa đổi. Câu hỏi “Toán tử chính tắc T tồn tại trong trường hợp nào?” đã được nghiên cứu sinh Nguyễn Cảnh Lương giải đáp dứt khoát: Điều kiện cần và đủ để toán tử chính tắc T tồn tại là m = 4k+2 (k= 0.
Buông tại Thư viện nhà nước. Có những chỗ ông Lương sử dụng từ ngữ khác chút ít so với luận án của PGS Đặng Văn Khải nhưng nội dung thì không khác nhau.
Định lí và chứng minh căn bản giống như PGS Đặng Văn Khải cũng như một số người khác đã làm. Đặng Văn Khải có một số nghiên cứu rất gần với đề tài luận án. Khi nhận xét luận án của ông Nguyễn Cảnh Lương. Giao cho Khoa Toán áp dụng tổ chức bảo vệ thử luận án. Một giáo sư của Viện Toán học nói: Theo tôi biết.
Trong luận án không trích dẫn công trình nào của Đặng Văn Khải và cũng không nói rõ mối liên tưởng các kết quả của tác giả và Đặng Văn Khải. Sáng tạo giải quyết vấn đề đặt ra vẹn tròn và triệt để.
PGS Nguyễn Cảnh Lương phải dìm: Cách phát biểu định nghĩa. Thẩm tra. Kết quả tiếp theo là: Nếu N=16 thì m#9; hệ Cauchy – Rieman yếu gồm 16 phương trình. Năm 1986 PGS Đặng Văn Khải đã công bố và bảo vệ nhiều nội dung mà ông Nguyễn Cảnh Lương nhận là của mình. M; N); theo PGS Khải thì chỉ có m=N khi N=2; 4; 8. Không để kéo dài. Bít tất chương II đã chép lại nhiều nội dung trong chương I; chương III cũng chép lại nhiều nội dung chương II và một phần chương I của PGS Đặng Văn Khải.
Do GS. Trong chương III. Nghiên cứu sinh Nguyễn Cảnh Lương tìm được điều kiện cần và đủ để qua phép biến đổi tuyến tính không suy biến đưa được hệ phương trình vi phân cấp I về tương đương với hệ Cauchy – Rieman mạnh.
Hội đồng nêu: “đề nghị phân tách trong luận văn và trong tóm tắt luận án công trình của anh Khải”.
No comments:
Post a Comment