Cũng từ đây, ông Thái cho rằng trong điều kiện hiện nay, khi quy hoạch và xây mới các trọng điểm logistics thì việc xác định vị trí và tích hợp chức năng cảng cạn với trọng tâm logistics cần được cân nhắc
Hiện tại, các ICD của ta hồ hết là “sân sau” của các cảng hay các công ty giao nhận, vận chuyển, phát triển cốt ở khu vực phía Nam, nhỏ lẻ ở phía Bắc và hoàn toàn chưa có ở miền Trung.Cảng cạn ở miền Nam, trong đó có ICD Phước Long phát huy hiệu quả nhất so với cả nước Quá nhiều bất cập Khẳng định ICD là điểm nối giữa một bên là nơi sinh sản - tiêu thụ hàng hóa xuất nhập cảng với một bên là cảng biển, đóng vai trò trọng điểm kết nạp, bảo quản, phân phối hàng hóa, Phó Cục trưởng Cục HHVN Đỗ Hồng Thái cũng dìm hệ thống ICD của ta chưa đích thực phát huy tốt vai trò của mình mà nguyên do quan trọng là do phát triển kiểu tự phát.
Đồng ý kiến với ông Đỗ Hồng Thái, ông Trương Văn Thái - một chuyên gia trong lĩnh vực cảng biển nhận định: “Có một thực tế các ICD này toàn nằm gần cảng chứ không phải gần khu công nghiệp nên còn khó tập hợp nguồn hàng, chưa giảm được giá thành vận tải”.
Do khối lượng hàng hóa ưng chuẩn cảng khu vực này chiếm đến 80% lượng hàng hóa của cả nước và với lợi thế nối liền với cảng biển cả bằng hệ thống liên lạc đường thủy và đường bộ nên đã phát huy được vai trò trong việc làm điểm trung chuyển hàng hóa giữa các doanh nghiệp xuất nhập cảng và cảng biển.
Hiện thời, tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, ước lượng, để có thể trung chuyển 50% lượng container từ các cảng biển vào năm 2020 thì diện tích ICD cần tăng thêm 1,5 lần, tức thị cần thêm khoảng 300ha.
Chính vì lý do đó mà phạm vi hoạt động của các ICD này cũng có một số hạn chế, chủ yếu cung cấp dịch vụ chuyển vận đường bộ, cho thuê kho bãi là chính. Cùng với đó, theo ông Đỗ Hồng Thái, quy hoạch cảng cạn mới xác định khu vực dự kiến hình thành cảng cạn chứ chưa xác định vị trí cụ thể. Hiệp Vũ. Theo đó, đến năm 2020, sẽ có hệ thống ICD đạt công suất khoảng 6 triệu TEU/năm, trong đó miền Bắc đạt 1,2 triệu TEU/năm, miền Trung đạt 600 nghìn TEU/năm và miền Nam đạt 4,2 triệu TEU/năm.
Đến năm 2030, xây dựng hệ thống ICD đạt công suất 14,2 triệu TEU/năm, tương ứng ở 3 miền là 3,5; 1,9 và 8,8 triệu TEU/năm. “Một điểm chung của hệ thống ICD trên cả nước là việc trang bị các thiết bị xếp dỡ chuyên dụng các ICD chưa đáp ứng nhu cầu cộng với việc bố trí, xếp đặt hàng hóa trong kho bãi chưa thật sự tốt, khoa học dẫn đến các tác nghiệp hàng hóa vẫn chưa phát huy được hiệu quả trong việc giải phóng hàng hóa nhanh chóng” - ông Thái nhấn mạnh.
Tuy nhiên, quy hoạch hạ tầng đường sắt hiện chưa hề đề cập đến các tuyến này. Trên thực tại, các ICD miền Nam được coi là đang phát huy hiệu quả nhất so với cả nước. Thủ tướng Chính phủ đã phê chuẩn Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn trên cả nước từ cuối năm 2011. Gỡ khó cách nào? Cảng cạn có rất nhiều ưu việt là điều chẳng thể tranh cãi.
Tuy nhiên, làm thế nào, quy hoạch ra sao để các cảng cạn này phát huy một cách tốt nhất tiềm năng vốn có là vấn đề cần được các cơ quan quản lý quốc gia sớm giải quyết. Trong khi đường thủy nội địa phải phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện thiên nhiên thì phương thức vận tải thứ hai kiên cố sẽ là đường sắt. Nhiều chuyên gia đề xuất cần nhanh chóng quy hoạch phát triển thêm các ICD tại các tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương và Long An gần các KCN tập trung và kết nối tiện lợi giao thông sắt, thủy, bộ với các cụm cảng mai mối.
Trong khi đó, các ICD miền Bắc lại chỉ kết nối độc nhất với đường bộ mà chưa có các kết nối với đường biển và đường sông.
Trong Quy hoạch cảng cạn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ICD phải được kết nối với ít nhất 2 phương thức vận chuyển.
No comments:
Post a Comment