Nguyễn Bình
Sang trọng các thời kỳ chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Việt Nam và thời đoạn suy thoái kinh tế bao cấp (1975-1981), Cửu Đỉnh vẫn còn nguyên vẹn 9 đỉnh và không bị dịch chuyển khỏi vị trí ban đầu.
Trong đó có 1 đỉnh ở giữa hàng, được đặt nhích lên 3m với hàm ý để tôn vinh công lao to lớn của vị vua trước hết của triều đại (Gia Long). Cửu Đỉnh được đúc từ cuối năm 1835 và hoàn tất đầu năm 1837. Trọng lượng chiếc nặng nhất 2061kg, chiếc nhẹ nhất 1935kg. Các công trình này liên kết với nhau về không gian kiến trúc, về chức năng mỗi công trình, trong một tổng thể cảnh quan hài hòa.
Đến với Huế hôm nay, du khách vẫn truyền nhau thông điệp từ tổ hợp độc đáo này: “Chưa biết Cửu Đỉnh coi như chưa biết đến Cố đô”.
Mỗi đỉnh được khắc một tên riêng, là “miếu hiệu” biểu trưng mỗi vị hoàng đế sau khi mất đưa vào thờ tại Thế Miếu, như: Cao Đỉnh- vua Gia Long; Nhân Đỉnh- vua Minh Mạng; Chương Đỉnh- vua Thiệu Trị; Anh Đỉnh- vua Tự Đức; Nghị Đỉnh- vua Kiến Phúc; Thuần Đỉnh- vua Đồng Khánh; Tuyên Đỉnh- vua Khải Định; còn Dụ Đỉnh và Huyền Đỉnh chưa biểu trưng cho vua nào bởi khi cách mệnh tháng Tám thành công đã kết thúc thời kỳ phong kiến của vương triều nhà Nguyễn, đưa nước ta bước vào trang sử mới.
Cửu Đỉnh thực thụ là di sản văn hóa quý hiếm,. Chiếc cao nhất tới 2,5m, chiếc thấp nhất 2,3m.
Chu vi vòng lưng từ 4,64m tới 4,72m. Giá trị của Cửu Đỉnh đầu tiên nằm ở tầm vóc to lớn của nó và trình độ đúc đồng tinh xảo của những người thợ thủ công Phường Đúc, Huế. Quơ 153 mảng hình trên Cửu Đỉnh là 153 bức chạm độc lập, hoàn chỉnh, là sự phối hợp điêu luyện giữa nghệ thuật đúc và chạm nổi đồ đồng nước ta hồi đầu thế kỷ XIX.
Trên mỗi đỉnh, người ta đều chạm khắc 17 bức họa tiết và 1 bức họa thư, với các chủ đề về vũ trụ, nước non, chim thú, sản vật, binh khí… tập kết thành bức tranh toàn cảnh của tổ quốc Việt Nam hợp nhất thời nhà Nguyễn.
No comments:
Post a Comment