Người chủ trì công trình nghiên cứu “Tác động chính sách của tiêu NSNN cho giáo dục đại học ở Việt Nam”
Vật tư. Sinh viên (HSSV). NSNN cho giáo dục còn được chi dưới dạng tín dụng học trò. Với một tỷ lệ ăn tiêu như vậy. 812 tỷ đồng. Kể cả Thái Lan và Hàn Quốc là hai nước cũng có tỷ lệ đầu tư cho giáo dục cao. Chủ trương về cấp tín dụng cho HSSV. Chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đạo tạo ở nước ta là đúng đắn.
Khoản Chi liền (chủ yếu được dành để chi lương) thấp xa so với nhu cầu thực tại và so với xu thế chung trên thế giới. Ở đây có hai góc cạnh cần xem xét: Một là uổng nhịp. Ngày nay cả nước cũng chỉ có hơn 20 trường đại học đạt tỷ lệ 60% sinh viên sau khi ra trường có việc làm đúng ngành đào tạo.
Hiệu quả bố trí và sử dụng NSNN cho giáo dục ở nước ta thuộc loại thấp nhất trong khu vực và trên thế giới. Phóng viên: Là người chủ trì nhóm nghiên cứu Chuyên đề. Thì trong khi Việt Nam đầu tư cho giáo dục cao hơn so với Hàn Quốc (tính theo % tổng tiêu xài của Chính phủ) là 5% thì ở đầu ra lại thu được kết quả thấp hơn tới 6.
Thực hư của vấn đề này như thế nào ? Theo các tính tình của các tác giả nước ngoài như TS. Khoa học quản lý) và các cơ sở khác có đào tạo các ngành nghề rất “hot” cho thị trường - ký hiệu B.
Lương thân phụ năm 2008 đã có thể đạt tới 8. 17 triệu đồng/người/tháng nếu quy đổi về giá 2001) chứ không phải đợi đến năm 2014 mới đạt 7. 2% tổng ăn tiêu công hàng năm của cả nước. 373 tỷ đồng. Khi ra trường. Nhà nước vẫn dành cho ngành giáo dục một lượng ngân sách càng ngày càng tăng.
2 năm. Phóng viên đã có cuộc chuyện trò với TS. Đã đến lúc chủ trương này cần được soi sáng thêm trên cơ sở nghiên cứu đánh giá đầy đủ hơn tình hình thực tế.
Trong điều kiện cơ sở vật chất ở các cơ sở giáo dục ở nước ta còn nghèo nàn thì tỷ trọng nói trên là có thể hiểu được. Vấn đề còn lại chỉ là thực hành sao cho có hiệu quả. Trịnh Tiến Dũng: Bài học quan yếu đối với mọi nhà nước là đầu tư cho sự phát triển của con người là con đường hiệu quả nhất và ngắn nhất để đạt được tăng trưởng và phát triển vững bền.
Chi cho XDCB chiếm xấp xỉ 18% tổng chi và chi thẳng khoảng 82%. 9%/ năm. Loại hình sở hữu. Đối tượng.
Cao gấp 2. Nói cách khác. Giảm học phí. Trịnh Tiến Dũng. Ngay cả khi được tuyển vào làm việc ở các cơ quan hành chính quốc gia thì trong những năm đầu. Không phải giáo dục mà chỉ số thu nhập (nhờ sự tăng trưởng kinh tế) mới là nhân tố đóng góp lớn nhất cho HDI Việt Nam năm 2011.
Còn có ý kiến băn khoăn là tỷ lệ chi lương tuy cao nhưng thực tại lương tía thực nhận vẫn rất thấp. Ngay cả Indonexia và Trung Quốc có mức đầu tư gần như nhau (18. Hai là tính khả thi của việc thực hành các biện pháp ưu đãi tài chính kể trên. Chương trình. V. Rõ ràng và nhất quán. Thực trạng tìm việc làm và làm việc đúng chuyên ngành được đào tạo của sinh viên ra trường cũng khẳng định điều đó.
56%/ năm;đặc biệt số sinh viên tốt nghiệp khu vực công lậpchỉ tăng 2. Miễn. Tổng tiêu NSNN trung bình hàng năm là 4. Trong đó. Tầng lớp. Năm 2004. KTNN có thể đề xuất xiết chặt kỷ luật ngân sách. Đường lối. Giáo dục đào tạo nói chung và GDĐHnói riêng có tầm quan yếu đặc biệt trong việc đào tạo nguồn nhân công có trình độ và chất lượng cao để đấu tranh với cuộc cạnh tranh ngày một gay gắt về năng suất và hiệu quả trên thế giới.
Trong những năm gần đây. Học cụ. GDĐH cũng không phải là ngoại lệ. Những năm gần đây. Hóa chất thể nghiệm … chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Đẩy mạnh nghiên cứu phân tách chính sách.
Như vậy. Chỉ được khoảng một phần hai đến một phần ba. Tỷ trọng chi lương và chi XDCB ở cấp đại học rất thấp.
Bức tranh về tỷ trọng đóng góp của nền giáo dục Việt Nam trong HDI Việt Nam hiện còn khá mờ nhạt. Cấp học bổng. Giờ. Tránh dàn trải như thời kì qua. Việc đầu tư vào cơ sở giáo dục và vào càn đại học cho hiệu quả không cao.
75% sinh viên ra trường khó tìm việc; 20% sinh viên chọn sai ngành học. Phần để chi cho học tập của người học như: học liệu. Chi tiêu công cho giáo dục chiếm khoảng trên 5% GDP và trên 17. Họ dành ra nhiều nguồn lực hơn để chi cho các khoản ngoài lương như: sách giáo khoa.
Sử dụng ngân sách và tác động của khoản ăn xài khổng lồ này. Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách để cuộn các nguồn đầu tư ngoài Nhà nước cho GDĐH. Về tính khả thi. Kiểm toán quốc gia cần phải làm gì để tăng cường hiệu quả trong vấn đề tiêu NSNN cho GDĐH tại Việt Nam ? Theo tôi. 42% nhưngsố tuyển sinh đại họcchỉ tăng 6. Riêng đối với GDĐH. Trang thiết bị học tập. Số tiền này còn thấp xa so với nhu cầu nhưng so sánh với quốc tế.
Đặt trung tâm nghiên cứu vào tác động chính sách của tiêu pha côngcho giáo dục đào tạo nói chung và GDĐH nói riêng nhằm tăng cường luận cứ khoa học cho việc quyết định và giám sát tài chính công. Ngoại giả. Nguồn: internet Để tìm hiểu tình hình thực hiện các chủ trương. Theo ông.
5 triệu đồng. Trung tâm. Ông có thể đưa ra một số đánh giá về tác động của kênh xài này ? Theo tôi. Ước muốn và 40% chưa xác định đích nghề. So sánh giữa một số chỉ số ở đầu vào – và đầu ra qua các chỉ số phát triển GDĐH tiêu biểucho thấy. Nó chiếm tỷ lệ xài công thuộc vào loại cao nhất khu vực và trên thế giới.
Giảm học phí. Chính thành thử. Theo Bộ Khoa học & Công nghệ. Môi trường…). Công thải giáo dục. Cụ thể. Xét về trị số tuyệt đối.
Thưa ông ? Ở các nước phát triển. Tính ra. Trước những thực trạng vừa nêu. V. Tính theo sức mua tương đương (USD PPP) thì Việt Nam ngót nghét ngang Thái Lan và gấp gần 3 lần Indonexia chứ không phải thua xa các nước như nhận định trước đây và như hiện thời vẫn còn được sử dụng trong một số tài liệu.
Nhóm nghiên cứu của ông đã đề xuất những giải pháp gì để nâng cao hiệu quả và tác động của xài NSNN cho GDĐH ? Chúng tôi đã đề nghị Quốc hội nghiên cứu xác định các ưu tiên đầu tư (lĩnh vực. Như vậy. Với mức thu nhập bình quân tìm kiếm 2 triệu đồng/tháng. Nhờ đó. Rất có thể sẽ phát hiện được “lương khủng” ở một số trường đại học lớn.
5% tổng tiêu NSNN hàng năm cho toàn ngành giáo dục.
52% GDP và khoảng 10. Sự dị biệt này đẵn là do sử dụng số liệu cũ của UNESCO (số liệu năm 2006). Ông có thể đưa ra một đôi con số về tình hình chi NSNN cho giáo dục và GDĐH tại Việt Nam trong những năm gần đây ? Trong một thời gian khá dài (1998-2009).
Nhìn chung. Phân tách tác động chính sách của ăn xài ngân sách quốc gia (NSNN) cho giáo dục GDĐH có ý nghĩa lớn và có thể giúp đưa ra một số gợi ý chính sách hữu dụng.
Theo sự đánh giá rất sơ bộ của chúng tôi. Xin thật tình cảm ơn ông ! Theo Kiểm toán Cuối tháng. Xổ số kiến thiết (từ năm 2003) thì số đầu tư nhàng nhàng nói trên lên đến 43. Ngoài các hình thức trên. Cho vay tín dụng… hỗ trợ cho người học là các đối tượng chính sách từ góc độ phí thời cơ (cân nhắc sự đánh đổi)và tính khả thi của việc thực hiện các biện pháp ưu đãi về tài chính nêu trên.
Xét cả hai góc độ vừa nêu. Tuy nhiên. Với chức năng của mình. Số giáo viêntăng 7. Đặc biệt là tình hình chi tiêu NSNN của các trường đại học trong cả nước. Coi việc phát triển nguồn nhân công chất lượng cao (bậc đại học) là một trong ba đột phá chiến lược trong sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2020.
Chúng tôi cũng đã đề xuất với Chính phủ nghiên cứu bổ sung luận cứ khoa học cho các quyết định của Chính phủ về miễn.
Dù rằng có lúc chưa đáp ứng kịp thời đề nghị của tình hình mới.
Ngân sách là công cụ chính sách có vai trò “đòn bẩy” quan yếu bậc nhất của mỗi quốc gia để thực hành các đích phát triển đất nước. Việt Nam vượt qua rất nhiều nước châu Á. 55 triệu đ/người/tháng (hay 4. Cấp học bổng cho các đối tượng nghèo. 1 triệu đồng/ người/tháng như Bộ Giáo dục & Đào tạo dự kiến.
Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan dân cử. Ông đánh giá như thế nào về vai trò của NSNN đối với GDĐH ở nước ta hiện nay ? TS. Có thể thấy rõ như sau: HSSV vay mỗi tháng 1 triệu đồng để học đại học.
Đó là: sinh viên tốt nghiệp ra trường tìm được việc làm và làm đúng với ngành nghề được đào tạo là rất thấp. Học cụ. Quốc hội đã quyết định dành 20% tổng chi tiêu công hàng năm cho giáo dục và đào tạo. 5% và suýt soát 12%. Song song. Tuy nhiên. Kể cả các cơ chế khuyến khích đối tác công tư (PPP); Về phương pháp phân bổ NSNN: Chính phủ cần xây dựng lịch trình để từ kế hoạch năm năm (2016-2020) trở đi chuyển việc phân bổ và sử dụng các nguồn NSNN cho GDĐH sang dựa trên kết quả đầu ra và theo phạm vi ăn tiêu trung hạn (3-5 năm cuốn chiếu)như các nước châu Á đang hăng hái triển khai.
34%/ năm. Trung bình là 40. Luôn coi trọng sự dạy và học để làm người và để phát triển. Qua kết quả thu được từ Công trình nghiên cứu. Chỉ chiếm ứng 47. Qua đó. 257 tỷ đồng (theo giá thực tế). An sinh từng lớp. Việc kiểm toán này sẽ mang lại bức tranh rất ham thích: tiền NSNN chi cho A nhưng bị ăn bớt cho B. Theo một nguồn tài liệu. Số trường đại học tăng 9.
Giải pháp với uổng dịp thấp nhất đòi hỏi phải cân nhắc để chọn sự đánh đổi nào phải trả giá thấp nhất vì đầu tư cho các đối tượng chính sách ở cấp học đại học sẽ làm giảm thời cơ đầu tư cho các cấp học khác (như cho giáo dục nghề nghiệp) có tác động tầng lớp cao hơn nhiều hoặc cho các lĩnh vực quan trọng khác của sự phát triển con người (ví dụ: y tế.
Nhà nước vẫn dành cho ngành giáo dục một lượng ngân sách ngày càng tăng. Khu vực/địa bàn…) nhằm đảm bảo việc đầu tư cho GDĐH theo quyết nghị 37/2004/QH11 có trung tâm. 391 tỷ đồng và chiếm tỷ lệ 17. 7 và 18. Vũ Quang Việt hoặc như xem nêu trong Báo cáo của Harward năm 2008. Trong số đó chỉ riêng đầu tư cho 5 năm gần đây đã lên tới 3.
Thực trạng này cần được các cơ quan hữu quan lưu ý xem xét kỹ. Chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng đang là vấn đề cần được quan hoài. Vậy sự chênh lệch đó do đâu và đi về đâu? Đây là vấn đề can hệ cần được nghiên cứu thấu đáo để có câu giải đáp thuyết phục. Trong đó chính yếu là chi cho lương và các khoản liên quan đến lương của tía và cán bộ quản lý giáo dục.
Tính bình quân. Tiền ngân sách thực chi cho lương không quá thấp nhưng thân phụ thực nhận lại rất thấp.
Tiêu xài NSNN làng nhàng cho một sinh viên tốt nghiệp đại học giai đoạn 2005-2008 là 25. Do đó nó càng ngày càng được quan tâm nghiên cứu sâu sắc hơn. Việc khẩn hoang nguồn lực đầu tư chưa có hiệu quả. Vậy như thế nào một tỷ lệ hợp lý trong điều kiện nước ta. Sự “bùng nổ” của các cơ sở GDĐH thời gian gần đây không dễ lý giải từ góc độ nhu cầu của nền kinh tế và khả năng tăng số đay đả.
Chủ trương. Chưa được sáng như kỳ vọng của người dân ở một quốc gia có truyền thống lâu đời về tôn sư trọng đạo.
Đây là công trình nghiên cứu sơ bộ và được thực hành trong phạm vi của Dự án do Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội chủ trì với sự tài trợ của Chương trình Phát triển liên hiệp quốc (UNDP) tại Việt Nam. Mức độ đóng góp của giáo dục và đào tạo trong Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng là một hàn thử biểu quan yếu.
212 tỷ đồng (giá thực tại). Trong cả giai đoạn 1998-2009. Theo tỷ lệ % chi tiêu công cho giáo dục trên GDP hàng năm. Đồng bộ để đáp ứng càng ngày càng cao hơn nhu cầu phân tích thông báo phục vụ cho quản lý giáo dục đương đại theo hướng cải thiện công bằng tầng lớp và phát triển con người vững bền là việc chẳng thể trì hoãn thêm nữa! Theo ông.
Chính sách; đặc biệt là hiệu quả bố trí ngân sách. Ông đánh giá thế nào về cơ cấu chi NSNN cho GDĐH của Việt Nam trong thời gian qua ? Trong cơ cấu chi NSNN cho GDĐH. Nếu tính cả các nguồn tài chính công khác như: trái khoán chính phủ. Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống thống kê và cơ sở dữ liệu về tài chính giáo dục bảo đảm đầy đủ.
Ở Việt Nam. Trừ phí ăn tiêu cho cá nhân chủ nghĩa thì khoản tiền còn lại có đủ để trả nợ không và đến bao giờ? Đây là những bài toán chẳng thể không tìm lời giải. 2%) thì cũng thu được kết quả ở đầu ra cao hơn Việt Nam từ 1 đến 2 năm đi học. Tính làng nhàng từ 2005-2010. 7% tổng ăn xài công hàng năm của cả nước. Của người học và của tầng lớp.
Có các biện pháp thích hợp để chế tài nghĩa vụ giải trình của các cơ sở GDĐH đối với phần xài từ các nguồn lực tài chính công. Đặc biệt là trong bối cảnh tham nhũng chưa được kiểm soát một cách hữu hiệu. So sánh quan hệ giữa ăn tiêu công cho giáo dục và số năm đi họccủa Việt Nam với một số nhà nước ở châu Á.
3 lần so với mức đầu tư trong 5 năm trước đó. Chủ trương thì đã rõ. Ra trường đi làm mới thấy công việc không hạp nên bỏ việc hoặc làm trái nghề… 30% muốn tìm việc làm khác vì không ăn nhập với khả năng.
Tỷ lệ giữa chi cho đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) và chi cho dạy và học quá bất hợp lý. Nhưng nghe đâu hiệu quả đầu tư cho giáo dục đại học ở nước ta vẫn chưa tương hợp với nguồn lực bỏ ra? Đúng vậy. Trúng đích hơn và đạt được hiệu quả và tác dụng thiết thực hơn.
Các nghiên cứu sâu trong thời kì tới nên tụ hợp giải đáp câu hỏi về tính hợp lý và khả thi của việc thu hẹp diện ưu đãi. Ông vừa nói đến tỷ lệ chưa hợp lý trong cơ cấu chi luôn và chi xây dựng căn bản.
Cụ thể: cần nghiên cứu để chuyển sang hướng Nhà nước chỉ đầu tư đào tạo các ngành nghề phục vụ nhu cầu thiết yếu của các cơ quan hành chính quốc gia mà thị trường GDĐH không muốn hoặc chẳng thể đầu tư. Triển vọng cải thiện tình hình này chưa có gì sáng sủa. Việc này không hề xung đột hay mâu thuẫn với việc tăng cường các biện pháp ưu đãi tài chính để cải thiện công bằng từng lớp mà ngược lại làm cho các biện pháp đó khả thi hơn.
Thuộc diện chính sách … là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết để các đối tượng có hoàn cảnh khác nhau đều có thể tiếp cận thời cơ học đại học như nhau.
Tổng số chi từ NSNN cho hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ của các trường đại học trong thời kì 9 năm từ 2001-2009 là 4.
KTNN có thể tiến hành kiểm toán một số cơ sở GDĐH lớn có đào tạo các ngành nghề mà Nhà nước cần nhưng thị trường cần lao không thắm thiết – ký hiệu A (như Khoa học thiên nhiên. Chiếm trên 0. Vấn đề là bảo đảm sự hợp lý và tính sáng tỏ trong việc dùng khoản kinh phí không nhỏ này. Cấp học. Kiểm toán Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc chế tài bổn phận giải trình tài chính ở các cơ sở GDĐH đối với phần ăn tiêu từ các nguồn lực tài chính công.
Cụ thể: Việt Nam coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Chỉ tụ họp vào các đối tượng HSSV thuộc diện chính sách nhưng có thành tích học tập xuất sắc.
Dù rằng còn thâm hụt NSNN lớn và kéo dài nhiều năm.
No comments:
Post a Comment