Tuesday, October 15, 2013

Kỷ ý tưởng niệm Ngày Nam bộ kháng chiến 23/9: Hình tượng nóp và ngọn tầm vông.

Khí giới đặc biệt của quân dân Nam Bộ Mãi cho đến bữa nay, hình ảnh của nóp và ngọn tầm vông vẫn còn gợi lại trong ta hình tượng những đoàn quân chân không, tay cầm ngọn tầm vông, vai mang chiếc nóp rầm rập tiến trên các nẻo đường hành binh

Kỷ niệm Ngày Nam bộ kháng chiến 23/9: Hình tượng nóp và ngọn tầm vông

Khi mỏi mệt dựa lưng vào phì phèo khói thuốc. Song, quân và dân ta đã chiến đấu can đảm và kiên cường bằng các loại khí giới thô sơ như thế. Hoài Phương. Đi đến đâu người làm mướn gánh mướn bao giờ cũng giữ chiếc nóp bên mình. Mãi cho tới thời chống Mỹ cứu nước, nhiều anh em du kích vẫn còn quấn khăn rằn nằm nóp nhưng chiếc nóp trong thời kỳ này được cải tiến thuận tiện hơn, thông dụng hơn.

Ít lâu sau có một thầy đội người Việt tên Nếp, hắn cấm bà con gọi chiếc xếp bằng tên hắn nên mới đổi thành Nốp rồi đọc trại ra Nóp cho đến ngày nay… Chiếc nóp và gậy tầm vông đã trở nên niềm kiêu hãnh của người dân Nam Bộ, là biểu tượng của tinh thần hiên ngang quật cường và ý thức chịu đựng gian khổ trong suốt hai cuộc kháng chiến thần kỳ giành độc lập tự do cho dân tộc.

Lúc buồn ngủ chui vô làm một giấc ngon lành. Chính chiếc nóp đã giúp cho họ có được những giấc ngủ yên lành, nhất là những nơi sình lầy như Đồng Tháp Mười, nơi mà sớm hôm “Muỗi kêu như sáo thổi. Giáo và gậy tầm vông (Ảnh chụp tại bảo tồn TP Cần Thơ) Trong các loại vũ khí thô sơ, ngọn tầm vông là thứ khí giới lợi hại nhất của nghĩa quân Trương Công Định mà cụ Nguyễn Đình Chiểu đã từng ca ngợi: “Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ …”.

Bàng làm ra đệm, nón, giỏ. Thậm chí có người còn ngủ “mùng nước” tức thị nằm ngâm mình trong xuồng chứa nước, chỉ ló đầu ra để thở. Cái nóp có lẽ do người Miên bày ra trước. Cũng có nguồn tài liệu kể rằng: Thời Thiên Hộ Vương lập chiến khu đánh Tây ở Đồng Tháp Mười, số nghĩa quân lên tới hàng ngàn, mỗi đồn có tới hai ba trăm người nhưng phần đông đều không có mùng mền, mỗi người chỉ mang theo một chiếc đệm bàng rồi gập đôi lại, tối chui vào nằm cho đỡ muỗi cắn

Kỷ niệm Ngày Nam bộ kháng chiến 23/9: Hình tượng nóp và ngọn tầm vông

Lúc đầu chiếc nóp trông có vẻ đơn giản, về sau anh em nghĩa binh thấy chiếc đệm bàng có nhiều công dụng nên mới cải tiến dần và ngày càng phổ quát rộng đến quần chúng. Họa sĩ Tô Dự, người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, kể rằng: Trong những ngày đầu chống thực dân Pháp, chiếc nóp và gậy tầm vông là hai vật bất ly thân của người chiến sĩ Nam Bộ, còn với quần chúng.

# Thì chiếc mõ tre được coi như một thứ “vũ khí” đặc biệt, một âm thanh cách mạng dùng để thông tin, giao thông và trấn áp địch trong những lúc nguy cấp. Cuộc đương đầu của quân và dân ta trên trận mạc miền Nam diễn ra trong điều kiện cực kỳ khó khăn gian khổ. Ở vùng sông nước miệt vườn, bà con đi làm ăn xa thường mang theo đệm, nóp, nồi niêu và ít đồ dùng xuống ghe lênh đênh khắp kinh rạch.

(Ca dao) Giặc Pháp gọi chiếc nóp là “màn Việt Minh” vì trên bước đường hành quân vạn dậm, chiếc nóp vừa là ba lô, vừa là chiếc mùng cũng vừa là tấm chăn để phủ liệm thi hài đồng đội. Anh em đặt tên cho nó là chiếc XẾP, sau đổi thành NẾP để khỏi trùng âm với chef (xúc phạm tới quan Tây). Vào những năm kháng chiến khốc liệt, từ những nơi xa xăm, hằng trăm đàn bà, mẹ già thức đêm giã bàng, đan đệm, chằm nóp gởi ra tiền phương cho con, cho chồng và tặng nhân tình đang ngày đêm tranh đấu sẽ làm rung động mãi trái tim Việt Nam: Nóp nầy em gởi tặng anh/Thuyền em bơi tận trong kinh Tháp Mười/Gởi ba nó ngủ ấm lòng/Để đi giết giặc lập công thật nhiều.

Chiếc nóp trong thời kỳ chống Pháp (Ảnh chụp từ Bảo tàng TP Cần Thơ) Còn chiếc nóp vừa là sản phẩm độc đáo của dân chúng Nam Bộ, vừa là bạn đồng hành của những nông dân chân lấm tay bùn.

Chiếc nóp trong đời sống dân nghèo Theo nhà khảo cổ Vương Hồng Sển thì nóp là bao đệm to, dài cỡ hai thước, may kín, chừa miệng theo chiều dọc, ban đêm dân lao động Hậu Giang chui vào để ngủ.

Đỉa lội lềnh tợ bánh canh” khiến cho bà con dân cày phải đốt lá cây hun khói để đuổi muỗi, hoặc ngủ “mùng gió” tức là ngồi trên xuồng đôi khi phải bơi thật nhanh cho có gió. Tháp Mười và Kiên Giang là quê hương của các loài cỏ đưng, cỏ lác nhưng nức danh nhất vẫn là bàng. Từ việc ngủ bờ ngủ bụi cho tới ngủ xuồng ngủ ghe, ngủ chăn vịt, ngủ giăng câu đặt lờ… không có gì hữu dụng bằng chiếc nóp quê mình.

No comments:

Post a Comment