Bởi vậy sau khi đứa bé đủ 7 ngày tuổi, gia đình mới làm lễ tạ ơn và đặt tên
Dân tộc Khor là một trong những cư dân bản địa sống cốt yếu ở vùng Nam Tây Nguyên.Chính vì thế trong thời kỳ nằm ổ, người Khor thường cắm một cành cây có gai dài khoảng 1m bên ngoài vách nơi gần bếp lửa để ngăn chặn ma quỷ và thông báo nhà có người mới sinh không cho khách và người lạ vào, vì sợ mang tới những điều xấu, ốm đau bệnh tật.
Người chủ tế thường là bố vợ. Mùi mồ hôi nắng cháy hăng hắc của núi rừng cao nguyên ngày nào được thay thế bằng nước hoa thơm nức.
Tại một số nơi ở tận các vùng sâu vùng xa của đồng bào Khor, Mạ, mãi cho đến năm 2000 vẫn còn tồn tại những tập tục cũ như người nữ giới sắp sinh con phải ra ở một túp lều riêng trong vườn, hoặc chiếc chòi bên suối, thậm chí người mẹ tự đẻ, không cho ai nhìn thấy, cho đến một tuần mới được vào nhà.
Tôi cầu xin Yàng NDu, Yàng Brê (thần rừng) Yàng Đạ (thần sông), Yàng Kơhbơnơm (thần núi) che chở cho nó thẳng cánh khỏe chân, có cái ăn no bụng và cho nó được sống bình yên tới già…. Khoảng hơn nửa thế kỷ trước, cũng giống như người kinh sống ở vùng nông thôn thường đặt tên con mang âm hưởng của nền văn minh lúa nước như Trần Thị Tý, Lê Văn Sửu, Huỳnh Văn Lúa… còn người Khor đặt tên con mang hình bóng của thời kỳ hái lượm.
Người Khor tin rằng bất kỳ đứa trẻ nào cũng đều được dốt chở che trong thế cuộc. Cuộc sống của bà con từ lúc định canh định cư chuyển đổi cây trồng như trà, cà phê đã nâng mức sống của các dân tộc gốc Nam Tây Nguyên đổi khác từng năm.
Nhắc đến ngày xưa, có lần tôi hỏi một kỹ sư Nhật về sự so sánh của người Việt “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”, người thanh niên cau mày hỏi lại. Đối với các gia đình có cảnh ngộ neo đơn các cán bộ y tế đến tận nhà đỡ đẻ, đồng thời vận động bà con trong việc gian bệnh tật, hay ăn chín uống sôi.
Việc ấy cũng giống như đàn bà Khor 50 năm trước, tự sinh con ở túp lều bên suối rồi đến 7 ngày về nhà, được bố đẻ làm chủ tế trong lễ đặt tên, đến nay chỉ còn là câu chuyện kể từ một thời xa vắng.
Hiện nay tập tục ấy đã kết thúc, đàn bà được sinh trong nhà bên cạnh bếp lửa than ấm liên tục trong thời gian nằm bếp, hoặc nếu sinh con ở trạm xá, bệnh viện khi về nhà vẫn phải nằm cạnh bếp lửa cháy liu riu.
Trong lúc làm lễ, ông bố đóng khố truyền thống, đầu quấn khăn, tay cầm roi mây và lục lạc. Nữ giới K'hor ảnh chụp 1952. Sau khi nghe tôi giải thích, anh ta phá lên cười. Do đời sống vật chất và văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc được nâng cao theo tiêu chí nông thôn mới, nhất là ở các vùng trồng cây công nghiệp.
Giờ tại các huyện Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lâm thuộc tỉnh Lâm Đồng các cư dân bản địa gần như đã chấm dứt cuộc sông du canh du cư phá rừng làm rẫy, những gia đình Khor chịu thương chịu khó làm ăn trở nên sung túc xuất hiện càng ngày càng nhiều, điển hình là tỉ phú KPhèng ở Di Linh, xây nhà vi la, con cái đều học đại học ở tỉnh thành. Sự kiện lưỡi gà được dính ấy đồng tức thị tên của đứa bé đã được dốt chấp thuận.
Cô ấy đang chia sẻ tâm sự với bạn bè bằng tiếng Khor của mình. Lớp trẻ Khor dù là nam hay nữ đều dần dần mất đi bóng vía của núi rừng hoang dã mà chỉ có hình ảnh sóng đôi trên các triền đồi cà phê, chè hoặc đang ngồi trên ghế nhà trường. Tại các trạm y tế, số lượng các bà mẹ Khor đến khám thai định kỳ hoặc đến bệnh xá sinh con ngày một nhiều.
Thực ra, K và Ka không phải là họ mà chỉ là một danh từ đặt trước tên của người như ông, bà, anh, chị…. Chờ mọi người khấn vái xong, ông chủ lễ cắt tiết gà cho vào chén, còn lưỡi gà được móc ra cầm tay, người cúng vừa đọc tên đứa bé vừa cầm lưỡi gà nhúng vào rượu cần rồi ném lên bàn thờ từ một đến ba lần cho đến khi chiếc lưỡi dính vào vách tre phía sau bàn độc. Hoàng Hôn cao đến 1
Sau đó ông ôm một con gà đưa lên tầm mắt hướng thẳng lên bàn thờ cầu khấn dốt với âm sắc trầm bổng: “Ớ Yàng, bữa nay cháu của tôi đã được 7 ngày, tôi xin dâng lễ phẩm này đến Yàng để tạ ơn và xin đặt tên cho cháu.
Khác với dân tộc Kinh có rất nhiều họ như Nguyễn, Trần, Lê… con cái sinh ra mang theo họ của cha, còn người Khor theo chế độ mẫu hệ nên theo họ mẹ. Trước đây, người Khor chưa có chữ viết, nên việc đặt tên cho con mang âm điệu Môn Khmer như: KPròc, KReo, Ka Nrèng, Ka Rgụt.
Tuy nhiên, kể từ khi sơn hà hợp nhất, quốc gia đã từng bước xây dựng buôn làng thành thôn xã theo mô hình nông thôn mới. Sau này được các nhà tiếng nói học sáng tạo ra chữ theo mẫu tự Latin, nên những thế hệ sinh vào thập niên 80 trở về sau đều dùng theo tên mới.
7m bộ mặt nhân hậu, tóc xoăn dài với làn da nâu và nụ cười rất tình cảm… Nhìn các em mang những tên mới, năng động chọn nghề và chủ động dự hội nhập cộng đồng dân tộc ở thế kỷ 21 này đã minh chứng cho lớp trẻ Khor hiện nay không còn hát bài “ gùi trên vai và giáo trong tay” đi len lách giữa rừng núi đại ngàn như ngày xưa nữa. Sau lời cầu xin Yàng của ông bố vợ, thảy những người trong dòng họ tại buổi lễ đều chắp tay lâm râm cầu nguyện an lành cho đứa trẻ.
Dân tộc Khor chỉ có hai họ, nam giới mang họ K và đàn bà mang họ Ka. “Cháu không biết, nghe mẹ kể buổi chiều mẹ đau bụng đẻ, rồi ba chở đến bệnh viện và sinh cháu vào lúc 6h chiều nên đặt tên theo thời kì để sau này dễ nhớ”. Người được mời chứng kiến buổi lễ gồm có ông cậu, già làng, cô đỡ và bà con ruột rà bên nội, bên ngoại.
Thí dụ: KPlơi có nghĩa là ông Plơi, chú Plơi hoặc Ka lisa Hoàng Hôn có tức thị bà/cô/em Lisa Hoàng Hôn. Ka li Sa Hoàng Hôn giải thích bằng tiếng Anh một cách lưu loát. Buổi lễ đặt tên được tổ chức trước bàn độc trong nhà. Ka lisa Hoàng Hôn vẫn còn đứng trước văn phòng. Sau đó người ta lấy máu gà trong chén chấm lên trán đứa nhỏ xin dốt nát che chở cho nó suốt đời.
Được ông giám đốc trường dạy nghề cho biết về khả năng tiếng Anh của cô gái vùng cao, nên tôi xin phép gặp và hỏi cháu bằng tiếng nước ngoài vừa soát khả năng ngoại ngữ vừa muốn biết lý do bố mẹ đặt cái tên khá thơ mộng như vậy. Con trai thì được dài chân, dài tay như con vượn, khỏe mạnh như con gấu, con beo để gìn giữ buôn làng, săn bắt thú hoang, giỏi việc đi rừng lên rẫy.
Lễ phẩm cúng độn bao gồm một chóe rượu cần, một con gà sống, một nhánh chuối, một quả trứng gà, một chén cơm… Bên cạnh các lễ vật cúng Yàng còn được bày thêm các vật dụng khác như: chiếc gùi nhỏ trang hoàng nhiều hoa văn, bộ khung dệt vải hoặc chiếc xà gạt, chiếc ná đã được chuẩn bị từ trước để nhìn nhận dốt nát ban cho con gái thì xinh đẹp, siêng năng, khéo tay.
Theo ông Đoàn Bích Ngọ, người có tri thức về phong tục Khor cho biết: Cách đây khoảng 50 năm, bà con sống xa cách với nền văn minh, nên việc nữ giới trước và sau khi sinh con được mạnh khỏe, bé lọt lòng sống sót là niềm vui cho cả một họ tộc. Ngày ấy, các bộ tộc sống giữa núi rừng hoang dã nên việc bảo vệ con người hoặc những đàn bà mang thai và trẻ sơ sinh đều đặt niềm tin vào sự chở che của Yàng.
Không chỉ đi lên về đời sống, ở thế hệ mới này còn mang những cái tên dễ viết, dễ nhớ và dễ thương…. Ố hô, ố hô!”. Bây chừ Không ít các cháu ra đường, đi phố đi bằng xe máy, mặc áo Pull, quần Jean mang theo điện thoại di động. Chuyện đó chỉ có từ thời ông cố của tôi, hiện thời làm gì còn”.
No comments:
Post a Comment