Lần này cụ Ưởng không năn nỉ, cũng không có hành động "ngoan cố" nào
Cuộc sống hoang dã và những lần thoát chết kỳ diệu Với cụ Ưởng, rừng chính là cơm để ăn, nước để uống và không khí để thở. Xây "nhà" cũng là một thứ mê say của cụ. Cảm giác khó có thể đương đầu lại với chúng. Tao nhớ quê hương lắm rồi". Một mình sống trong rừng sâu, cụ Ưởng đã "bao phen lân la vào cửa tử, nhưng rồi chưa tới số nên lại bị đuổi ra" - cụ hài hước nói vậy.Khắp người nham nhở, trầy xước vậy mà rồi cũng không làm sao. Thế nhưng không ngờ khi vào đến nơi, người mà chúng tôi cần tìm lại đang nằm buồn thiu trên một cái giường nhỏ. Thế nhưng khi nhắc đến rừng là mắt cụ sáng lên, tinh thần nao nức hơn hẳn.
Lúa thì trồng trên núi, rau rừng và cá dưới sông. Cụ bảo nếu không cho cụ vào rừng sống thì cụ thà chết đi còn hơn. Quãng đường khoảng 30 phút ngồi trên thuyền để trở về "quê hương", cụ Ưởng nói và ngâm thơ không ngừng nghỉ. Những người con của cụ đã sao lần họp bàn với nhau tìm cách đưa bố về coi sóc nhưng bất thành.
Ở trong đó thích lắm!". Quả thực, khi bước chân vào những cái hang đó, cảm giác như đang chui vào phòng điều hòa mát lạnh. Việc cụ Ưởng gắn bó cả đời mình với rừng sâu ban sơ cũng có lý do. Thật chẳng thể tin được một ông cụ sống gần trọn một thế kỷ, đang nằm ọp ẹp là thế vậy mà chỉ cần nhắc đến rừng, đồng ý cho cụ trở lại rừng là ngay thức thì bật dậy.
Lần gần đây nhất, cụ đi lên núi, bị hòn đá xanh to nó rơi vào chân không giãy ra được.
Mát lạnh". Lúc còn trẻ, sức khỏe dai sức, cụ Ưởng rất thích công việc khám phá địa điểm đẹp để dựng "nhà". Cô đồng ý theo tôi vào rừng thì chúng ta cùng chung sống ở đó". Từ lúc bước chân xuống thuyền lại là một cụ Ưởng hoàn toàn khác, mạnh mẽ và phấn chấn. Cái lần cụ bị đá chèn qua ngực phải nằm viện điều trị.
Đá to lắm nên tôi không thể nào đẩy nó ra được. Chỉ mới cách đó không lâu là một cụ Ưởng nằm bẹp, buồn thiu trên chiếc giường nhỏ. Thế nhưng lần này các con của cụ đã không đồng ý cho cụ quay trở lại đấy nữa. Hằng ngày cụ Ưởng thức dậy từ tinh mơ sáng, trèo lên các bậc núi để ươm thêm cây.
Để minh chứng cho lời của cha mình, bà Sắng kể lại: "Số cụ nhà tôi lạ lắm.
Cụ nhất định tuyệt thực, đói lả ra cũng chịu. Thấy lính Pháp truy lùng ghét, cụ Ưởng ở rịt trong rừng luôn.
Bởi ít gì năm nay cụ cũng đã 94 tuổi, và mới chỉ trước đó không lâu cụ Ưởng đã phải nhập viện cấp cứu vì bị đá đè vào người tưởng chết. Đúng là lạ thật. Ai đến cụ cũng mời hoa thơm, trái ngọt. Đến nay "cơ ngơi" mà cụ khai thác được là những vạt rừng ngút ngát hoa trái.
Bà Sắng nói với cha là đã đến giờ về. Thương bố, các con cụ lại phải để cụ vào rừng. Phía dưới là những vạt đá to và phẳng để làm giường. Câu nói duy nhất mà cụ Ưởng nói với các con là: "Cho tao về lại quê hương tao đi. Năm 13 tuổi, cụ Ưởng bị lính Pháp bắt đi phu. Vào đến rừng là mọi bệnh tật tiêu tán hết. Tôi nhìn thấy trong đôi mắt già, nhăn nheo ngân ngấn nước.
Nếu thiếu rừng cụ có thể thành ngơ ngẩn, sẽ chết mòn. Niềm vui của cụ Ưởng khi được trở về thăm “quê hương”. Hoặc nhiều khi gia đình phải có công có việc gì không đừng được thì cụ mới chịu rời "quê hương" một vài ngày mà thôi
Người thì hỏi bà Sắng: "Sao nghe nói đợt này "bắt" cụ ở nhà song? Giờ lại cho cụ vào rừng à?".Một lần khác, cụ bị rơi từ trên vách núi xuống vực với độ cao đến ba, bốn mét. Bình thường cứ làm giỗ cho vợ xong thì cụ Ưởng lại tức thì trở về rừng. Sau một năm khổ dịch, cụ trốn thoát vào rừng sâu. Ban đầu người nhà gàn rất nhiều, ai cũng nói "sóng gió" qua rồi cứ việc ở nhà thôi đừng vào lại đó nữa. Vào "quê hương" ai lại mệt bao giờ".
Sau rồi, bà Sắng phải nhượng bộ, đồng ý đưa cụ về thăm lại rừng. Đi trồng cây, đi bắt cá, hái quả là khỏe ngay mà".
Con trai của cụ đã giấu chìa khóa và bảo người canh gác cụ, không được để cụ bỏ trốn vào rừng. Nói rồi cụ bật dậy và khăng khăng đòi quay trở về "quê hương". Cụ Ưởng gật đầu. Mấy ngày qua cụ Ưởng một mực bỏ ăn bỏ uống, không nói không rằng. Có những lần tưởng chết mười mươi rồi mà vẫn qua được.
94 tuổi nhưng giọng hát vẫn ngân vang. Sau này có một người làng vào xin hoa quả, họ mới phát hiện ra tôi nằm ở đó rồi hô hoán mọi người vào cứu tôi đấy.
Khi chúng tôi đến, cụ vẫn nằm y như cũ, không động đậy cũng chả buồn trò chuyện. Mò mẫm tìm cây gậy để ở cuối giường, rồi giục chúng tôi nhanh nhanh chóng chóng đi cho kịp.
Cụ nói: "Đi đi, đi vào quê hương tao nhé. Hang đá nơi cụ Ưởng sinh sống. Xót bố sống khổ sở và cô độc trong rừng sâu nhưng các con của cụ không còn biết làm gì khác là đành chiều lòng bố. Dù có vợ mới cưới nhưng cũng phải thi thoảng lắm cụ Ưởng mới lại trèo thuyền về thăm vợ. Con gái cụ lắc đầu than vãn: "Khổ thế đấy cô chú ạ.
Sau này đến tuổi lập gia đình, cha mẹ bắt cụ Ưởng về lấy vợ với hy vọng có vợ rồi có cả con sẽ giúp cụ quên đi nỗi nhớ rừng và chấp nhận trở về cuộc sống của một người thông thường. Hỏi cụ có mệt không thì cụ lắc đầu bảo rằng: "Không. Cụ đồng ý chỉ vào thăm rồi về thôi".
Đường về “nhà”. Lần đó tôi phải nằm viện mất 5 ngày". Nhưng đề nghị cụ Ưởng phải hứa là chỉ vào thăm thôi, thăm xong nhất quyết phải quay về. Bởi lấy vợ xong, mới qua tối động phòng thì ngay hôm sau cụ Ưởng lại khăn gói về "quê hương". Bởi có những lần các con của cụ kiên quyết thì cụ Ưởng còn kiên quyết hơn.
Nhưng sau này khi tuổi đã cao, các con của cụ xót bố phải nằm trong hang đá lạnh lẽo nên đã cùng nhau xây cho cụ một căn nhà nhỏ phía bìa rừng để có nơi tránh mưa, tránh bão. Bởi bà Sắng rất lo, chỉ cần cụ bước vào căn nhà đó thôi thì sẽ không ai có thể bẩy được cụ ra nữa.
Trưa muộn. Song cụ không chịu, mọi suy nghĩ lúc nào cũng chỉ hướng về rừng, về những hang đá và những rặng cây mà cụ đã tự tay gieo trồng, chăm bón. Có vào "quê hương" của cụ mới thấy được sự kỳ công và tình yêu mà cụ dành cho những cái hang của mình. Vậy mà ngồi trên thuyền cụ Ưởng không ngừng ngâm thơ rồi kể chuyện cuộc sống hoang dại nơi rừng sâu cho chúng tôi nghe.
"Mắc nợ" với rừng ban sơ chúng tôi cũng chỉ định vào nhà bà Đinh Thị Sắng để hỏi thăm về “người rừng” Đinh Văn Ưởng, là bố đẻ của bà Sắng. Phấn khởi lắm. Thế nhưng thật lạ, cụ Ưởng về nhà cũng chỉ mắt trước mắt sau, biết tình hình của những người nhà rồi như có một sợi dây vô hình nào đó cứ bắt đôi chân cụ phải tìm về rừng sâu.
"Nhà" của cụ chính là những cái hang rộng, phía trên hở để không khí lọt vào. Riêng những đứa con của cụ thì vẫn than thở rằng cụ có số "giời đày". Ở quê cụ Ưởng, mỗi khi nhắc đến cụ người ta vẫn thường gọi trêu là "dị nhân người rừng". Vậy mà chỉ cần nói đến được về rừng cái là cụ phấn khởi thế này đây"
Khi về lại có quà mang theo. Hơn 80 năm thui thủi sống trong rừng sâu, mọi thứ sinh hoạt hằng ngày đều do cụ tự kiếm. Ngoài trời nắng vẫn gắt. Cụ hứa rồi. Thuyết phục thế nào cụ Ưởng cũng không nghe. 13 tuổi, cụ bắt đầu cuộc sống của một Tazan và đến nay cụ đã 94 tuổi. Cụ nói với vợ: "Tôi chẳng thể sống thiếu "quê hương" được đâu. Người sống ở quê, người sống trên phố nhưng ai nấy đều có nhà cửa đàng hoàng.
Cụ chống gậy theo con gái, đi bên cạnh chúng tôi. Mấy năm sau cụ mới dám trở về nhà thăm bác mẹ.
Nhưng, mong muốn của các cụ thân sinh ra cụ Ưởng đã không được toại nguyện. Bà Sắng nước mắt ngắn dài năm nỉ xin cha đừng đòi vào rừng nữa mà hãy ở lại đây để các con trông nom nhưng cụ không nghe. Cơ man nè na, ổi, dâu da xoan, nhãn… Những thứ đó cụ Ưởng không bán mà chỉ đem về chia cho con cháu hoặc những người lái thuyền trên sông vào khu du lịch.
Thỉnh thoảng lại bê những tảng đá xanh to để xây "nhà". Trời phú cho cụ có được sức khỏe diệu kỳ. Bà Sắng đáp nhời: "Không. Cụ phải nằm bất động ở đó đến mấy ngày mới có người đi rừng phát hiện ra. Hình như ông trời cho sống để đày thêm thì phải. Hỏi người cháu dâu của cụ Ưởng thì được chị cho biết, cụ mới về nhà để làm giỗ cho vợ được hai ngày nay.
Hỏi cụ có bí quyết gì không thì cụ Ưởng cười móm mém: "Sống lâu thì quen thôi. Bởi bà không muốn tiếng là vừa lấy chồng mà đã bị chồng bỏ rơi. Đến khi người ta cứu được thì cụ đã ngất vì đói, còn phần chân bị đá đè đã thối và có giòi bò". Ngoài trời nắng như đổ lửa. Người lại hỏi: "Thế không sợ vào đến đó rồi cụ cứ ở rịt trong đó thì làm sao?".
Cụ bảo: "Ngủ trong này sướng lắm. Ngồi trước cửa ngôi nhà nhỏ nhỏ xíu, những con muỗi to như con ruồi thi nhau lao vào phía chúng tôi mà chích. "Còn một lần tôi đi vần đá về xây "nhà", chẳng may vấp thế là tảng đá đó nó đè ngang ngực.
Thế nhưng cái sự thương cha của các con cụ Ưởng đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của cụ.
Chốc chốc cụ lại ngoái lại nhìn căn nhà nhỏ ấy, những cái hang ấy và bạt rừng ấy. Con cái hỏi cũng không buồn giải đáp. Cụ cười bảo: "Có làm sao đâu. Quân thù rồi thì cũng thành bầu bạn hết". Người vợ nước mắt ngắn dài nhưng cũng buộc phải chấp nhận. Cứ như thể cụ đoán biết rằng, rất có thể đây sẽ lần chung cuộc cụ được trở về với "quê hương" của mình, được thăm lại cái nơi đã gắn bó với mình hơn 80 năm qua.
Lần này, để cho chắc ăn, bà Sắng đưa cha và chúng tôi vào thăm "quê hương" của cụ nhưng không cầm theo chìa khóa nhà. Vậy mà, vì nhớ rừng quay quắt cụ rút cả ống truyền dịch rồi len lén trốn con để "mò" về rừng. Trời cuối hạ. Sống ở rừng, chết cũng muốn chết trong rừng Cụ Ưởng có tuốt 5 người con.
Ở nhà thì tượng không nói câu nào. Thế mà người đàn ông già này đã có thâm niên hơn 80 năm sống chung thân cùng chúng. Suốt dọc đoạn đường ngồi trên thuyền đến "quê hương" của cụ Ưởng, bất kể người lái đò nào khi gặp thuyền của chúng tôi cũng đều hỏi han.
Nhưng sống với chồng được một thời gian ngắn, vợ cụ Ưởng đã chẳng thể chịu đựng được cuộc sống quá hoang dại ăn hang ở lỗ, muỗi đốt khắp người, cái gì cũng thiếu nên đã phải khăn gói về lại quê.
No comments:
Post a Comment